Search This Blog

Saturday 28 February 2015

011 Mạc phủ tức sự 幕府即事


Sau mấy mươi ngày hành trình gian khổ (qua vùng chân núi bùn ngập sâu bụng ngựa, khe suối âm u ma quái...), — mệt mỏi "lòng như chết" — tạm nghỉ chân dọc đường ở trạm dành cho sứ giả. Nhưng ở đây, cả đêm thanh la inh ỏi, không ngủ được. Nghĩ tới đường trước mặt còn xa muôn dặm, không khỏi ngao ngán lòng.






谿



Triệt dạ la thanh bất tạm đình
Cô đăng tương đối đáo thiên minh
Kinh tuần khứ quốc tâm như tử
Nhất lộ phùng nhân diện tận sanh
San lộc tích nê thâm một mã
Khê tuyền phục quái lão thành tinh
Khách tình chí thử dĩ vô hạn
Hựu thị Yên Sơn vạn lí hành


Dịch nghĩa:
Tức cảnh ở mạc phủ (1)


Suốt đêm tiếng thanh la không tạm ngớt
Ngồi đối mặt ngọn đèn cô đơn cho đến sáng
Xa cách nước nhà đã mấy mươi ngày (tuần=mười ngày), lòng như chết
Dọc đường gặp toàn người lạ mặt.
Chân núi chứa bùn ngập sâu bụng ngựa.
Yêu quái ẩn núp nơi khe suối, già đã thành tinh.
Tình lữ khách đến đó cũng thật quá chừng
Lại còn phải đi hàng muôn dặm nữa mới tới Yên Sơn (2)


Dịch thơ:
Chép chuyện nơi trạm nghỉ chân

Thâu đêm chẳng ngớt tiếng đồng la,
Đợi sáng riêng nương ngọn nến tà.
Mấy tháng ôm lòng xa đất tổ,
Trên đường lạ mặt những người ta!
Quái nằm nhẩy suối, hồn ma dậy,
Bùn chứa đầy non vó ngựa sa.
Tình cảnh ngán ngao đà đến thế,
Yên Sơn còn cách vạn trùng xa.


(Quách Tấn dịch)



chú thích

(1) Mạc phủ: vốn chỉ doanh trướng của tướng soái khi làm việc ở ngoài. Sau phiếm chỉ phủ thự của quan lại bậc cao trong quân chính. Đây chỉ nhà trạm cho sứ giả nghỉ chân.
(2) Yên Sơn: dãy núi ở gần kinh đô Trung Quốc. Đây chỉ Yên Kinh (kinh đô nhà Thanh).


















Friday 27 February 2015

Bắc Hành Tạp Lục 北行雜錄


Chuyến đi: 06/05/1813 - 27/10/1813
Ở Yên Kinh khoảng 20 ngày.
Chuyến về: 16/11/1813 - 18/05/1814

001 Long Thành cầm giả ca 龍城琴者歌
002-003 Thăng Long 昇龍
004 Ngộ gia đệ cựu ca cơ 遇家弟舊歌姬 
005 Giáp thành Mã Phục Ba miếu 夾城馬伏波廟
006 Quỷ Môn Quan 鬼門關
007 Lạng thành đạo trung 諒城道中
008 Lưu biệt cựu khế Hoàng 留別舊契黃
009 Nam Quan đạo trung 南關道中 
010 Trấn Nam Quan 鎭南關 
011 Mạc phủ tức sự 幕府即事
012 Minh Giang chu phát 明江舟發 
013 Hoàng Sào binh mã 黄巢兵馬 
014 Ninh Minh giang chu hành 寧明江舟行
015 Vọng Quan Âm miếu 望觀音廟
016 Tam Giang khẩu đường dạ bạc 三江口塘夜泊 
017 Thái Bình thành hạ văn xuy địch 太平城下聞吹笛
018 Chu hành tức sự 舟行即事
019 Thái Bình mại ca giả 太平賣歌者 
021 Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu 題大灘馬伏波廟
022 Vãn há Ðại Than tân lạo bạo trướng chư hiểm câu thất 晚下大灘新潦暴漲諸險俱失

009 Nam Quan đạo trung 南關道中


Mùa xuân Quý Dậu (tháng 5 năm 1813), khí trời lạnh buốt, mưa trơn trượt, suốt hai mươi ngày đường hun hút núi xanh, vượt qua ải Nam Quan, thẳng lên hướng bắc...


Ngọc thư (1) phủng há ngũ vân đoan (2)
Vạn lý đan xa độ Hán quan (3)
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san
Quân ân tự hải hào vô báo
Xuân vũ như cao cốt tự hàn
Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn
Minh Giang (4) bắc thướng thị Trường An (5)


Chú thích

(1) Ngọc thư: sắc chiếu nhà vua.
(2) Ngũ vân đoan: từng mây năm sắc. Chỉ triều đình.
(3) Hán quan: cửa ải Nam Quan.
(4) Minh Giang: tức là sông Ninh Minh Giang 寧明江
 ở tỉnh Quảng Tây. Sông chia làm hai ngả bắc nam. Ngả nam chia ranh giới Việt Nam và Trung Quốc.
(5) Trường An: chỉ kinh đô, ở đây là Yên Kinh (Bắc Kinh).


Dịch nghĩa:
Trên đường Nam Quan

Chiếu của nhà vua từ tầng mây năm sắc ban xuống
Trên đường muôn dặm, chiếc xe lẻ loi vượt cửa ải nhà Hán.
Suốt dọc đường cùng ta chỉ có mái tóc bạc
Cả hai mươi ngày (nhị tuần) chỉ thấy núi xanh
Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp
Mưa xuân như mỡ lạnh buốt xương
Ðường của nhà vua rộng rãi bằng phẳng, thôi khỏi phải hỏi thăm
Theo dòng Minh Giang lên hướng bắc, ấy là Trường An

Dịch thơ:

Trên đường Nam Quan

Tầng mây năm sắc chiếu vua ban
Muôn dặm xe đơn vượt ải Nam
Một mạch đường dài trơ tóc bạc
Hai mươi ngày mỏi rặt non xanh
Mưa xuân như mỡ, xương thêm buốt
Ơn nước bằng trời, nợ nặng mang
Rộng phẳng đường vua thôi thắc mắc
Minh Giang hướng bắc ấy Trường An


(Đặng Thế Kiệt dịch)


















008 Lưu biệt cựu khế Hoàng 留別舊契黃


Trên đường đi sang Trung Quốc, Nguyễn Du ghé thăm một người bạn cũ họ Hoàng ở vùng sông Lục Đầu. Họ Hoàng có lẽ là một võ tướng (bách chiến dư).










Tạp niên cố hữu trùng phùng nhật
Vạn lí tiền đồ nhất xúc sơ
Đạo lộ nhật lai tình vị cánh
Vân sơn biệt hậu ý hà như
Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại
Lão hĩ toàn thân bách chiến dư
Tha nhật nam quy tương hội phỏng
Lục Đầu giang thượng hữu tiều ngư.



Dịch nghĩa:
Từ biệt bạn cũ họ Hoàng

Ngày gặp lại người bạn cũ ba mươi năm về trước
Cũng là ngày tôi lên đường đi muôn dặm
Chưa kể hết những nỗi dọc đường những ngày gần đây
Ở giữa núi mây, sau khi từ giã, ý bạn ra sao?
Buồn biết bao cảnh chia tay ngoài quan ải
Già mừng còn được toàn thân dù đã từng trăm trận đánh
Mai này trở về Nam, gặp lại muốn hỏi thăm nhau
Chắc bấy giờ trên sông Lục Đầu, bạn sẽ là một bác tiều phu, hay người đánh cá

Dịch thơ:

Từ biệt bạn cũ họ Hoàng

Ba mươi năm cũ gặp đây,
Lên đường vạn dặm cũng ngày tôi đi.
Tình thâm ơi, biết nói gì,
Núi mây li biệt ý thì ra sao?
Muôn trùng quan ải tay chào,
Mừng người bách chiến không sao tuổi già.
Về Nam mai mốt lân la,

Lục Ðầu bến nước hỏi tra ngư tiều.


(Đặng Thế Kiệt dịch)















007 Lạng thành đạo trung 諒城道中











Quần phong dũng lãng thạch minh đào
Giao hữu u cung, quyên hữu sào
Tuyền thủy hợp lưu giang thủy khoát
Tử sơn bất cập mẫu sơn cao
Ðoàn thành vân thạch tịch tương hậu
Hồng lĩnh thân bằng nhật tiệm dao
Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn
Khuông trung huề hữu bút như đao

Dịch nghĩa:
Trên đường đi Lạng thành (1)

Núi non trập trùng, sóng nhảy vọt  kêu trên đá.
(Ở đây) thuồng luồng có hang kín, chim cuốc (quốc) cũng có tổ.
Nước suối hợp lại thành sông rộng.
Núi con không cao bằng núi mẹ (2).
Mây đá Đoàn thành (3) chiều hôm nay như có ý đợi ta.
Thân bằng cố hữu ở núi Hồng Lĩnh (4) càng ngày càng xa cách.
Quái lạ, nỗi nhớ nhung đằm thắm sao lại dễ cắt đứt như thế. 

Trong tráp đã mang theo ngọn bút sắc như dao (để khuây khỏa nỗi xa nhà).

Chú thích

(1) Lạng thành 諒城: thành Lạng Sơn.
(2) Núi Mẹ: Mẫu Sơn 母山, thuộc Lạng sơn.
(3) Đoàn thành 團城: góc tây bắc thành Lạng Sơn hình vòng tròn, nên gọi là Đoàn thành (thành hình tròn). Các sứ bộ trên đường đi sang Trung Quốc đều dừng chân ở trạm cuối này bên Việt Nam.
(4) Hồng Lĩnh 鴻嶺: thuộc Hà Tĩnh quê Nguyễn Du.


Dịch thơ:
Trên đường đi Lạng thành

Núi trập trùng, sóng kêu trên đá
Tổ nương chim, hang đã có rồng
Suối gom dòng nhỏ thành sông
Núi con đọ núi Mẹ không cao bằng
Chiều Lạng Sơn, mây giăng đá ngóng
Hồng Lĩnh thân sao chóng cách xa
Lạ chưa, dứt nhẹ tình nhà
 

Ðoạn sầu ngọn bút theo ta bạn đường...


(Đặng Thế Kiệt dịch)















001 Long Thành cầm giả ca 龍城琴者歌


Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Tiểu dẫn (Nguyễn Du)

Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.

Giám hồcòn gọi là hồ Văn hay hồ Giám ở phía trước cổng vào Văn Miếu

Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hội nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.

Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.

Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng.


Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)



Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm (1) ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ (3) điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ (9) nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.






nguồn: Nam Phong Tạp Chí


Nguyên văn:









便
西滿








西


使











西





 

Phiên âm:
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kí thanh
Độc thiện Nguyễn cầm (1)
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Kì thì tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo
Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Ki xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri

Dịch nghĩa:
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn (1)
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám (3) trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc (4),
Tiếng buồn như Trang Tịch (5) ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa (6).
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng (7) không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân (8),
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ (9) vì tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!

Quách Tấn dịch xuôi
(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)


Chú thích

(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
(2) Tiền triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Giám hồ: Còn gọi là hồ Văn hay hồ Giám ở phía trước cổng vào Văn Miếu, Hà Nội.
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan.
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh nặng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
(6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê.
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội. 
Trong bài Tỳ bà hành 琵琶行 của Bạch Cư Dị 白居易 có câu: "Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu" 五陵年少爭纏頭 (Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau gieo thưởng).
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan trấn thủ Bắc thành thời Nguyễn.

(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)

Dịch thơ:

Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Người đẹp đất Long Thành
Tên họ chi ta không biết rõ
Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm
Khúc kia Cung Phụng nhất trần
Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua
Đã một lần thuở xưa gặp gỡ
Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang
Tuổi hai mươi mốt cô nàng
Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng
Theo ngón tay năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió mát rừng thông
Hạc kêu cao thẳm tiếng trong
Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ
Đau Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt
Người nghe đều mê mệt lời ca
Khúc đâu đại nội Trung Hòa
Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên
Mải vui suốt cả đêm không chán
Hai bên người tranh cạnh thưởng tài
Tiền như bùn đất vãi rơi
Hào hoa khí phái vượt nơi vương hầu
Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể
Băm sáu cung xuân để mà coi
Đúc chung vật báu trên đời
Của kia vô giá đất trời Trường An
Nay đã hai mươi năm tiệc ấy
Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam
Long Thành chẳng thấy tấc gang
Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa
Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát
Đám ca nhi tươi mát xuân xanh
Mà sao một mái hoa râm
Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài
Không điểm tô nét mày phờ phạc
Ai biết từng đệ nhất tài danh
Khúc xưa réo rắt dây đàn
Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh
Tai lắng nghe mà đành chua xót
Hai mươi năm chuyện trước là đây
Bên hồ chiếu tiệc mê say
Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây
Thành quách suy việc thay người đổi
Bao nương dâu thành bãi biển xanh
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
Trong làng múa hát còn đành một ai
Một cuộc thế không đầy chớp mắt
Cảm việc xưa lệ ướt áo này
Từ Nam về tóc trắng mây
Trách chi người đẹp tàn phai má đào
Trừng trừng hai mắt nhìn nhau
Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng

(Đặng Thế Kiệt dịch thơ)