Search This Blog

Wednesday 25 March 2015

061-062 Lỗi Dương Ðỗ Thiếu Lăng mộ 耒陽杜少陵墓


Nguyễn Du đi qua vùng Hồ Nam Hồ Bắc vào mùa thu năm Quý Dậu (1813). Tìm viếng mộ Đỗ Phủ (712-770) ở Lỗi Dương. Nhưng dấu tích ngôi mộ này đã mờ mịt. Nguyễn Du vốn bội phục Đỗ Phủ, cảm thương cuộc đời lận đận của bậc thi bá đời Đường, lại không khỏi chạnh nghĩ niềm riêng — có nhiều điểm tương đồng: Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau rớt nước mắt.









 

Lỗi Dương (1) Ðỗ Thiếu Lăng (2) mộ

Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư)
Bình sinh bội phục vị thường li
Lỗi Dương tùng bách bất tri xứ
Thu phố ngư long hữu sở ti (3) (tư)
Dị đại tương liên không sái lệ
Nhất cùng chí thử khởi công thi (4)?
Trạo đầu (5) cựu chứng y thuyên vị?
Ðịa hạ vô linh quỷ bối xuy (6).


chú thích

 

(1) Lỗi Dương 耒陽: ở tỉnh Hồ Nam 湖南. Năm Ðại Lịch 大曆 thứ 5 (770) đời vua Ðường Ðại Tôn 唐文宗, Ðỗ Phủ 杜甫 ở Hồ Nam 湖南 lưu lạc đến Hồ Bắc 湖北. Một hôm đến huyện Lỗi Dương lên núi yết Nhạc miếu, bị nước lụt dâng ngót mười hôm không trở về được. Quan huyện Lỗi Dương nghe tin bèn thân hành đưa thuyền đến đón. Về đến huyện, Ðỗ uống rượu say rồi mất. Gia đình nghèo không đưa hài cốt về quê được phải táng ở Lỗi Dương. Bốn mươi ba năm sau (813) cháu là Ðỗ Tự Nghiệp 杜嗣業 mới dời di hài về chôn gần mả tổ tại núi Thú Dương 首陽, tỉnh Hà Nam 河南. Nguyễn Du sang sứ Trung Quốc năm 1813, tức là một nghìn năm sau khi mả của Ðỗ Phủ đã dời về núi Thú Dương. Cho nên không còn ai biết nền cũ nằm ở chỗ nào.
(2) Ðỗ Thiếu Lăng 杜少陵: chỉ Ðỗ Phủ 杜甫 (712-770), một thi bá đời Thịnh Ðường. Vì có nhà ở đất Thiếu Lăng 少陵, phía nam Trường An 長安, tỉnh Thiểm Tây 陝西 nên có biệt hiệu là Thiếu Lăng.
(3) Hữu sở ti 有所思: trong bài Thu hứng 秋興 (số 4) của Ðỗ Phủ có câu: Ngư long tịch mịch thu giang lãnh, Cố quốc bình cư hữu sở ti 魚龍寂寞秋江冷, 故國平居有所思 nghĩa là: Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh, Thong thả lòng thêm nhớ cố hương. Nguyễn Du đã đúc hai câu làm một, vừa để nói lên nỗi lòng của Ðỗ Phủ ngày xưa, vừa tỏ tấm tình của mình khi đến viếng mộ: Mộ tuy không còn thấy, nhưng vẫn còn có chỗ để gởi lòng kính thương kính mộ là những áng thơ tuyệt tác như câu "Ngư long... "
(4) Công thi 工詩: câu này vừa khóc Ðỗ Phủ vừa than nỗi mình.
(5) Trạo đầu 掉頭: có nhiều nghĩa: lắc đầu, quay đầu lại, xoay đầu đi không đoái hoài (bất hồi cố), v.v. Đỗ Phủ: Sào Phủ trảo đầu bất khẳng trụ, Đông tương nhập hải tùy yên vụ 巢父 掉頭不肯住, 東將入海隨煙霧 (Tống Khổng Sào Phủ tạ bệnh quy du Giang Đông 送孔巢父謝病歸游江東). Câu thơ của Nguyễn Du nói đến "bệnh lắc đầu".
(6) Quỷ bối xuy 鬼輩嗤: Lũ quỷ dưới âm phủ chê cười. Hàn Dũ 韓 nói về Lí Bạch và Đỗ Phủ: Lí Đỗ văn chương tại, quang diễm vạn trượng trường. Bất tri quần nhi si, ná dụng cố báng thương 李杜文章在,光焰萬丈長。不知群兒癡,那用故謗傷 (Điệu Trương Tịch 調張籍) Văn chương Lí Bạch và Đỗ Phủ nghìn năm còn đó, ánh sáng chiếu ngời muôn trượng, sao bọn trẻ ranh ngu ngốc ấy dám báng bổ chê bai. Nguyễn Du hẳn cũng theo ý này, lo cho Đỗ Phủ không biết có còn bị lũ quỷ cười nhạo dưới âm ti chăng.

Dịch nghĩa:
Mộ Ðỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương (I)


Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời
Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt
Cây tùng cây bá ở Lỗi Dương, không biết ở nơi nào?
Cá rồng trong bến thu, còn có chỗ để tưởng nhớ
Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống rơi nước mắt
Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay?
Chứng bệnh lắc đầu ngày trước, bây giờ đã khỏi chưa?
Dưới địa phủ đừng để cho lũ quỷ cười


Dịch thơ:
Mộ Ðỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương (I)


Thơ thiên cổ cũng thầy thiên cổ,
Vốn một lòng ngưỡng mộ bấy nay.
Lỗi Dương tùng bá đâu đây?
Cá rồng thu lạnh sông đầy nhớ thương,
Há văn chương lụy người đến thế?
Chạnh nghìn xưa dòng lệ khôn ngăn,
Lắc đầu bệnh cũ còn chăng?
Suối vàng chớ để mấy thằng quỷ trêu.


(Quách Tấn dịch)










 

Mỗi độc nho quan đa ngộ thân (7)
Thiên niên nhất khốc Ðỗ Lăng nhân
Văn chương quang diễm thành hà dụng
Nam nữ thân ngâm (8) bất khả văn
Cộng tiển thi danh sư bách thế
Ðộc bi dị vực kí cô phần (9)
Thiên chu giang thượng đa thu tứ
Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân


chú thích

 

(7) Nho quan đa ngộ thân 儒冠多誤身: đây là một câu thơ trong bài Phụng tặng Vi Tả thừa trượng nhị thập nhị vận 奉贈韋左丞丈二十二韻 của Ðỗ Phủ.
(8) Nam nữ thân ngâm 男女呻吟: trong bài Càn Nguyên trung ngụ Ðồng Cốc huyện tác ca, thất thủ chi nhị 乾元中寓居同谷縣作歌,七首之二 (Năm Càn Nguyên ở huyện Ðồng Cốc, làm bảy bài ca - bài 2) có đoạn tả cảnh mùa đông, Ðỗ Phủ đầu bạc tóc rối đi đào khoai rừng. Nhưng tuyết xuống nhiều quá, phải về không: Nam nữ thân ngâm tứ bích tĩnh 男呻女吟四壁靜 Con trai gái kêu than, bốn vách lặng ngắt. Nguyễn Du, trong tập Nam Trung tạp ngâm 南中雜吟, bài Ngẫu đề 偶題 có một câu tương tự: Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc 十口啼饑橫嶺北. Quách Tấn dịch là: Mười miệng đòi cơm ngoài cõi bắc (Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995, trang 140).
(9) Kí cô phần 寄孤墳: gửi nấm mồ cô quạnh nơi đất khách. Xem chú thích (1).

Dịch nghĩa:
Mộ Ðỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương (II)


Mỗi lần đọc câu "mũ áo nhà nho thường làm lụy thân mình"
Lại khóc thương cho người đất Đỗ Lăng sống nghìn năm trước
Văn chương sáng ngời xong dùng được việc gì
Trai gái rên khóc chẳng đành lòng nghe
Ai cũng khen tài thơ là bậc thầy muôn thuở
Riêng ta thương cho ông phải gửi nấm mồ cô quạnh nơi đất khách
Một chiếc thuyền con trên sông, tứ thu dào dạt
Buồn bã trông đám mây chiều ở Lỗi Dương


Dịch thơ:
Mộ Ðỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương (II)


Mỗi lần đọc "Mũ nho thân lụy",
Lại khóc thương người cũ Ðỗ Lăng.
Ích gì ngời sáng thơ văn,
Bầy con kêu đói sao đành lòng đây?
Ai cũng khen thơ thầy muôn thuở,
Riêng ta thương phần mộ đìu hiu.
Thuyền sông thu nhớ thêm nhiều,
Buồn trông theo đám mây chiều Lỗi Dương.


(Đặng Thế Kiệt dịch) 




Tham khảo

Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm tái bản tại Paris, 1995






2 comments:

  1. This comment has been removed by a blog administrator.

    ReplyDelete
  2. Bọn vô ý thức dùng 1 diễn đàn thơ văn làm quảng cáo! Quả tình bọn bây ngu đần thiệt: người đọc ai để ý đến bọn bây?

    ReplyDelete