Search This Blog

Friday 27 February 2015

001 Long Thành cầm giả ca 龍城琴者歌


Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Tiểu dẫn (Nguyễn Du)

Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.

Giám hồcòn gọi là hồ Văn hay hồ Giám ở phía trước cổng vào Văn Miếu

Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hội nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.

Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.

Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng.


Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)



Long Thành Cầm giả, bất tri tính thị. Văn kì ấu niên tòng học bát Nguyễn cầm (1) ư Lê cung Hoa tần bộ trung. Tây Sơn binh khởi, cựu nhạc tử tán, kì nhân lưu lạc thị triền, hiệp kĩ dĩ ngao, thuộc tản bộ. Sở đàn giai ngự tiền cung phụng khúc, phi ngoại nhân sở văn, toại xưng nhất thời tuyệt kĩ. Dư thiểu thời, thám huynh để kinh, lữ túc Giám hồ (3) điếm. Kì bàng Tây Sơn chư thần đại tập nữ nhạc, danh cơ bất hạ sổ thập. Kì nhân độc dĩ Nguyễn cầm thanh thiện trường. Phả năng ca, tác bài hài ngữ, nhất tọa tận điên đảo. Sác thưởng dĩ đại bạch, Triếp tận, triền đầu vô toán, kim bạch ủy tích mãn địa. Dư thời nặc thân ám trung, bất thậm minh bạch. Hậu kiến chi huynh xứ, đoản thân khoát kiểm, ngạch đột diện ao, bất thậm lệ, cơ bạch nhi thể phong, thiện tu sức, đạm mi nùng phấn, ý dĩ hồng thúy tiêu thường, xước xước nhiên hữu dư vận. Tính thiện ẩm, hỉ lãng hước, nhãn hoắc hoắc, khuông trung vô nhất nhân. Tại huynh gia mỗi ẩm triếp tận túy, ẩu thổ lang tạ, ngọa địa thượng, đồng bối phi chi bất tuất dã. Hậu sổ tải, Dư tòng gia nam quy, bất đáo Long Thành nhược thập niên hĩ. Kim xuân tương phụng mệnh Bắc sứ, đạo kinh Long Thành. Chư công nhục tiễn vu Tuyên phủ (9) nha, tất triệu tại thành nữ nhạc, thiếu cơ sổ thập, tịnh bất thức danh diện, điệt khởi ca vũ, kế văn cầm thanh thanh việt, quýnh dị thời khúc, tâm dị chi. Thị kì nhân, nhan sấu thần khô, diện hắc, sắc như quỷ, y phục tịnh thô bố, bại hôi sắc, đa bạch bổ, mặc tọa tịch mạt, bất ngôn diệc bất tiếu, kì trạng đãi bất kham giả, bất phục tri vi thùy hà. Duy vu cầm thanh trung tự tằng tương thức, trắc nhiên vu tâm. Tịch tán, chất chi nhạc nhân, tức kì nhân dã. Ta hồ! Thị nhân hà chí thử da! Phủ ngưỡng bồi hồi, bất thắng kim tích chi cảm. Nhân sinh bách niên, vinh nhục ai lạc, kì khả lượng da. Biệt hậu, nhất lộ thượng, thâm hữu cảm yên, nhân ca dĩ thác hứng.






nguồn: Nam Phong Tạp Chí


Nguyên văn:









便
西滿








西


使











西





 

Phiên âm:
Long Thành giai nhân
Tính thị bất kí thanh
Độc thiện Nguyễn cầm (1)
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Kì thì tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo
Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Ki xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri

Dịch nghĩa:
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn (1)
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám (3) trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc (4),
Tiếng buồn như Trang Tịch (5) ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa (6).
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng (7) không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân (8),
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ (9) vì tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!

Quách Tấn dịch xuôi
(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)


Chú thích

(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
(2) Tiền triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Giám hồ: Còn gọi là hồ Văn hay hồ Giám ở phía trước cổng vào Văn Miếu, Hà Nội.
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan.
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh nặng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
(6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê.
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội. 
Trong bài Tỳ bà hành 琵琶行 của Bạch Cư Dị 白居易 có câu: "Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu" 五陵年少爭纏頭 (Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau gieo thưởng).
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan trấn thủ Bắc thành thời Nguyễn.

(Tố Như thi, Quách Tấn, An Tiêm in lần thứ hai tại Paris, 1995)

Dịch thơ:

Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành

Người đẹp đất Long Thành
Tên họ chi ta không biết rõ
Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm
Khúc kia Cung Phụng nhất trần
Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua
Đã một lần thuở xưa gặp gỡ
Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang
Tuổi hai mươi mốt cô nàng
Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng
Theo ngón tay năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió mát rừng thông
Hạc kêu cao thẳm tiếng trong
Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ
Đau Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt
Người nghe đều mê mệt lời ca
Khúc đâu đại nội Trung Hòa
Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên
Mải vui suốt cả đêm không chán
Hai bên người tranh cạnh thưởng tài
Tiền như bùn đất vãi rơi
Hào hoa khí phái vượt nơi vương hầu
Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể
Băm sáu cung xuân để mà coi
Đúc chung vật báu trên đời
Của kia vô giá đất trời Trường An
Nay đã hai mươi năm tiệc ấy
Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam
Long Thành chẳng thấy tấc gang
Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa
Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát
Đám ca nhi tươi mát xuân xanh
Mà sao một mái hoa râm
Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài
Không điểm tô nét mày phờ phạc
Ai biết từng đệ nhất tài danh
Khúc xưa réo rắt dây đàn
Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh
Tai lắng nghe mà đành chua xót
Hai mươi năm chuyện trước là đây
Bên hồ chiếu tiệc mê say
Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây
Thành quách suy việc thay người đổi
Bao nương dâu thành bãi biển xanh
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
Trong làng múa hát còn đành một ai
Một cuộc thế không đầy chớp mắt
Cảm việc xưa lệ ướt áo này
Từ Nam về tóc trắng mây
Trách chi người đẹp tàn phai má đào
Trừng trừng hai mắt nhìn nhau
Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng

(Đặng Thế Kiệt dịch thơ)




















































No comments:

Post a Comment