Search This Blog

Monday 25 May 2015

084 Thất thập nhị nghi trủng 七十二疑冢


Tào Tháo 曹操 (155-220), nổi tiếng là người đại mưu trí, có tánh đa nghi. Trước khi chết, sợ sau này có kẻ đào mồ, Tào Tháo cho làm 72 ngôi mộ giả ở ngoài Nghiệp Thành 鄴城 là nơi chôn mình. Nguyễn Du, trên đường đi sứ Yên Kinh năm Quý Dậu (1813), đã đi qua thành Nghiệp, vào mùa thu năm đó.

Uổng người mưu trí bao nhiêu
Muôn đời để lại lắm điều hồ nghi
Tiếng nhơ hòm giấu ích chi
Nghìn năm chửi rủa biết gì nắm xương...





滿



 

Thất thập nhị nghi trủng (1)

Nghiệp Thành (2) thành ngoại dã phong xuy
Thu thảo tiêu tiêu cựu sự phi
Uổng dụng nhất nhân vô hạn trí
Không lưu vạn cổ hứa đa nghi
Xú danh mãn quách tàng hà dụng
Tặc cốt thiên niên mạ bất tri
Hà tự Cẩm Thành Tiên chủ miếu (3)
Chí kim tùng bách hữu quang huy


Chú thích


(1) Thất thập nhị nghi trủng 七十二疑冢: Tào Tháo 曹操 (155-220), tự là Mạnh Đức 孟德, thời Kiến An có công thống nhất bắc Trung Quốc, làm quan đến chức thừa tướng, phong Ngụy Vương 魏王. Tào Tháo nổi tiếng là người đại mưu trí, có tánh đa nghi. Trước khi chết, sợ sau này có kẻ đào mồ, Tào Tháo cho làm 72 ngôi mộ giả ở ngoài Nghiệp Thành 鄴城 là nơi chôn mình.
(2) Nghiệp Thành 鄴城: Nay thuộc huyện Lâm Chương 臨漳 tỉnh Hà Nam 河南.
(3) Tiên chủ miếu 先主廟: Miếu thờ Lưu Bị 劉備 ở Cẩm Thành 錦城, phía nam huyện Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên 四川 tức đất Ba Thục 巴蜀 xưa của nhà Hán, nơi Lưu Bị đóng đô.

Dịch nghĩa:
Bảy mươi hai ngôi mộ giả


Bên ngoài thành Nghiệp gió đồng thổi
Cỏ thu tiêu điều, việc cũ đã qua
Dùng mưu trí vô hạn của một người thật uổng phí
Chỉ để lại bao nỗi ngờ cho muôn đời sau
Tiếng xấu đầy hòm, chôn giấu để làm chi
Nắm xương giặc nghìn năm bị chửi rủa mà không biết
Sao bằng miếu Tiên chủ ở Cẩm Thành
Đến nay cây tùng cây bách còn chiếu sáng


Dịch thơ:
72 ngôi mộ giả


Nghiệp Thành gió thổi vi vu
Chuyện xưa qua mất, cỏ thu tiêu điều
Uổng người mưu trí bao nhiêu
Muôn đời để lại lắm điều hồ nghi
Tiếng nhơ hòm giấu ích chi
Nghìn năm chửi rủa biết gì nắm xương
Không bằng Tiên chủ miếu đường
Cẩm Thành tùng bá sáng gương đến giờ


(Đặng Thế Kiệt dịch) 






Sunday 24 May 2015

083 Đồng Tước đài 銅雀臺


Nguyễn Du, trên đường đi sứ, qua thành Nghiệp 鄴 vào mùa thu năm Quý Dậu (1813). Thời Tam Quốc ở đây Tào Tháo 曹操 (155-220) đã xây đài Đồng Tước 銅雀 làm chỗ vui chơi.  

Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Người xưa qua mất, đến người sau
Trong thành Ngụy đế không còn nữa
Chỉ thấy đài xưa bến nước sâu...


























 


Đồng Tước đài (1)

Nhất thế chi hùng an tại tai
Cổ nhân khứ hề kim nhân lai
Bất kiến Nghiệp trung Ngụy Vũ Đế (2)
Đãn kiến giang biên Đồng Tước đài
Đài cơ tuy tại dĩ khuynh bĩ
Âm phong nộ hào thu thảo mĩ
Ngọc Long Kim Phượng (3) tận mang mang
Hà huống đài trung ca vũ kĩ
Tư nhân thịnh thời thùy cảm đương
Miễu thị hoàng đế lăng hầu vương
Chỉ hận tằng đài không luật ngột
Tiểu Kiều (4) chung lão giá Chu Lang
Nhất triêu đại hạn hữu thì chí
Thượng thực tấu ca đồ duyệt quỷ (5)
Phân hương mại lí khổ đinh ninh
Lạc lạc trượng phu hà nhĩ nhĩ
Gian hùng biệt tự hữu cơ tâm
Bất thị minh ai nhi nữ khí
Thiên cơ vạn xảo tận thành không
Chung cổ thương tâm Chương Giang (6) thủy
Ngã tư cổ nhân thương ngã tình
Bồi hồi phủ ngưỡng bi phù sinh
Như thử anh hùng thả như thử
Huống hồ thốn công dữ bạc danh
Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại
Thử địa cao đài ưng vị khuynh


Chú thích


(1) Đồng Tước đài 銅雀臺: Đài do Tào Tháo xây ở quận Nghiệp 鄴 làm chỗ vui chơi.
(2) Ngụy Vũ Đế 魏武帝: Tức Tào Tháo 曹操 (155-220), tự là Mạnh Đức 孟德, thời Kiến An có công thống nhất bắc Trung Quốc, làm quan đến chức thừa tướng, phong Ngụy Vương 魏王. Sau khi Tào Tháo chết, con là Tào Phi 曹丕 phế bỏ nhà Hán, lên làm vua, truy tôn là Ngụy Vũ Đế 魏武帝.
(3) Ngọc Long Kim Phượng 玉龍金鳳盡: Tên hai lầu ở hai bên đài Đồng Tước.
(4) Tiểu Kiều 小喬: Vợ của Chu Du 周瑜, đô đốc quân Ngô. Khổng Minh 孔明 khích Chu Du đánh Tào Tháo 曹操, xuyên tạc bài phú của Tào Thực 曹植 (con Tào Tháo) đọc cho Du nghe, nói là Tào Tháo xây đài Đồng Tước để bắt hai chị em Đại Kiều 大喬 (vợ Tôn Sách 孫策) và Tiểu Kiều (vợ Chu Du 周瑜) đem về nhốt. Chu Du nổi giận quyết đánh, diệt tám mươi vạn quân Tào ở trận Xích Bích 赤壁.
(5) Đồ duyệt quỷ 圖悅鬼: Lúc sắp chết, Tào Tháo dặn các tì thiếp hằng ngày phải cúng các món Tào Tháo thích ăn khi còn sống và có nữ nhạc múa hát để làm vui. Tào Tháo lại chia phấn sáp, giày thêu cho các tì thiếp để họ bán lấy tiền khi túng thiếu.
(6) Chương Giang 漳江: Sông phát nguyên từ Phúc Kiến 福建, chảy qua huyện Lâm Chương 臨漳.

Dịch nghĩa:
Đài Đồng Tước


Anh hùng một thuở nay ở đâu?
Người xưa đã qua, ôi! người nay tới
Chẳng thấy Ngụy Vũ đế trong thành Nghiệp
Chỉ thấy đài Đồng Tước ở bên sông
Nền đài tuy còn, nhưng đã nghiêng đổ
Gió lạnh thét gào, cỏ thu tàn úa
Lầu Ngọc Long, Kim Phụng cũng mịt mờ dấu vết
Huống chi ca nhi, vũ nữ trong đài
Người ấy lúc thịnh, ai dám chống lại?
Coi thường vua, lấn lướt vương hầu
Chỉ hận mấy tầng lầu cao sừng sững
Mà nàng Tiểu Kiều đến già vẫn là vợ Chu Lang
Một sớm mai hạn lớn xảy đến
Dâng thức ăn, đàn hát mong làm vui hồn ma
Chia hương, bán giày, khổ tâm dặn dò
Bậc trượng phu tài ba lỗi lạc mà sao như thế?
Kẻ gian hùng riêng có mưu kế trong lòng
Chẳng phải kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà?
Rốt cuộc muôn khéo nghìn khôn cũng thành không tất cả
Từ ngàn xưa đau lòng nước sông Chương
Ta nghĩ đến người xưa mà xót nỗi mình
Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh
Anh hùng đến như thế mà như thế
Huống chi những kẻ có chút công nhỏ mọn, danh vọng mỏng manh
Nghiệp lớn ở đời nếu còn mãi
Thì tòa đài cao ở đất này đã chưa đổ


Dịch thơ: 
Đài Đồng Tước

Một thuở anh hùng nay ở đâu?
Người xưa qua mất, đến người sau
Trong thành Ngụy đế không còn nữa
Chỉ thấy đài xưa bến nước sâu
Còn đây dấu cũ nền nghiêng đổ
Gió lạnh gào kêu, thu cỏ úa
Lầu rồng, gác phụng thảy tiêu tan
Nói đến làm chi người hát múa
Thịnh thời người ấy, ai đương đầu?
Coi thường vua chúa, lấn vương hầu
Chỉ hận mấy tầng cao sừng sững
Tiểu Kiều già vẫn vợ chàng Chu
Hạn lớn một mai bỗng xảy ra
Dâng ăn, đàn hát vui hồn ma
Hương chia, giày bán dặn dò mãi
Lỗi lạc trượng phu như thế a!
Gian hùng mưu kế lạ trong lòng
Tính khí đàn bà ủy mị thương
Muôn khéo, nghìn khôn không hết thảy
Nghìn năm đứt ruột nước sông Chương
Nghĩ đến người xưa xót nỗi mình
Bồi hồi cúi ngẩng kiếp phù sinh
Anh hùng như thế mà như thế
Huống kẻ công hèn phận mỏng manh
Trên đời huân nghiệp như còn mãi
Đất này đâu đã đổ tòa thành


(Đặng Thế Kiệt dịch) 












Saturday 23 May 2015

129 Hoàng Châu trúc lâu 黃州竹樓

image Internet: Hoàng Châu trúc lâu kí 黃州竹樓記.












 

Hoàng Châu (1) trúc lâu

Hợp vi cự trúc biến giao cù
Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu
Cựu chỉ hà thì thành bạch địa
Di văn tòng cổ kí Hoàng Châu (2)
Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm
Đương nhật tằng vô cách tuế mưu
Duy hữu Trường Giang xảo thu thập
Nhất thành nhất hủy tẫn đông lưu


Chú thích

 
(1) Hoàng Châu 黃州: tên đất, nay là huyện Hoàng Cương 黃岡, tỉnh Hồ Bắc 湖北.
(2) Di văn tòng cổ kí Hoàng Châu 遺文從古記黃州: tức là bài Hoàng Châu trúc lâu kí 黃州竹樓記.

Dịch nghĩa:
Lầu trúc ở Hoàng Châu


Những bụi trúc lớn bằng một ôm mọc khắp các ngả đường
Người thời trước từng dựng lên lầu này
Nền cũ trở thành đất trống từ bao giờ?
Vẫn còn đó bài kí ngày xưa nói về việc dựng lầu Hoàng Châu
Người đời sau luống xúc cảm vì chuyện nghìn năm cũ
Khi ấy đâu có tính gì đến việc năm sau
Chỉ có sông Trường Giang là khéo thu xếp
Bên bồi bên lở chảy hết ra biển đông


Dịch thơ:

Lầu trúc ở Hoàng Châu

(bài dịch 1)

Bụi trúc mênh mông khắp ngả trời
Lầu cao người trước dựng bao đời
Nền xưa đâu thuở thành hoang phế
Lầu cổ văn kia chép rõ mười
Cảm khái người sau nghìn năm cũ
Lo toan năm tới mấy ai thời
Trường Giang riêng khéo tài thu vén
Bên lở bên bồi tận biển khơi

(bài dịch 2)

Tám hướng trúc xanh mướt một màu
Tiền nhân từng đã dựng nên lầu
Nền xưa hoang địa từ bao nả?
Bài kí Hoàng Châu để lại sau
Cảm khái nghìn năm người mới đến
Lo toan năm tới mấy ai đâu
Trường Giang riêng khéo tài thu xếp
Bên lở bên bồi tận biển sâu 


(Đặng Thế Kiệt dịch)








Friday 22 May 2015

130 黃梅山上村 Hoàng Mai sơn thượng thôn


























 

Hoàng Mai (1) sơn thượng thôn

Sơn hạ hữu trường tùng
Sơn thượng hữu diêu thôn
Sơn hạ trường tùng sao
Chính đương sơn thượng môn
Môn nội sở cư nhân
Cùng niên hà sở vi
Nữ sự duy tích ma
Kì nam nghiệp vân tỉ
Vân tỉ cẩu đắc gian
Hạ sơn phạt tùng chi
Liêu dĩ túc quan thuế
Bất sự thư dữ thi
Thôi tô nhất bất đáo
Kê khuyển giai hi hi
Mật thạch ngại xa mã
Tạp hoa đương tuế thì
Sơn ngoại hưng dữ phế
Sơn trung giai bất tri
Toán lai nhất niên trung
Sở ưu vô nhất thì
Sở dĩ sơn trung nhân
Nhân nhân giai kì di
Tùng hoa bách tử khẳng hứa thực
Bạch đầu khứ thử tương an quy


Chú thích


(1) Hoàng Mai 黃梅: Núi ở huyện Hoàng Mai, thuộc tỉnh Hồ Bắc. Bài thơ có khí vị giống bài Đào hoa nguyên kí của Đào Uyên Minh (365-427): Dân trong vùng Suối hoa đào cũng ăn no mặc ấm, vui vẻ với phong tục của mình, không giao thiệp với người ngoài, cũng chẳng có quan lại triều đình gì cả, và tiếng gà tiếng chó tiếp nhau (Xem Cổ văn Trung quốc, Nguyễn Hiến Lê, Xuân Thu xuất bản, Houston, USA, trang 189).


Dịch nghĩa:
Xóm trên núi Hoàng Mai


Dưới chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm xa
Ngọn tùng cao dưới núi
Cao ngang cổng trên núi
Người ở trong cổng ấy
Quanh năm làm gì?
Việc đàn bà chỉ là xe sợi gai
Việc đàn ông là cầy cấy
Cầy cấy, lúc nhàn rỗi
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ thuế nộp cho quan
Không bận sách cùng thơ
Quan đòi thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá kín dầy cản xe ngựa
Các loại hoa cho biết mùa trong năm
Sự hưng phế bên ngoài núi
Người ở trong núi đều không biết
Tính lại suốt năm
Chẳng bao giờ lo âu
Cho nên người trong núi
Người người sống lâu trăm tuổi
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Khi bạc đầu, không về đây còn đi đâu nữa


Dịch thơ:
Xóm núi Hoàng Mai


[bài dịch 1] 


Tùng cao chân núi xanh rờn
Xa xa trên núi xóm thôn chập chùng
Lên cao cao vút ngọn tùng
Cổng rêu xa lánh mịt mùng thế gian
Cửa tùng đôi cánh cách ngăn
Cõi trong người sống thênh thang năm dài
Nữ nhân đánh sợi se gai
Nam nhân nương rẫy cấy cày sớm hôm
Khi thong thả việc bên đồng
Xuống núi chặt mấy cành tùng mang đi
Thuế quan lo đủ hạn kì
Thi ca sách vở cần chi bận lòng
Quan thu thuế chẳng tăm dong
Chó gà kia cũng vui mừng sởn sơ
Ðá dầy ngăn dấu ngựa xe
Mùa nào hoa ấy hề gì tháng năm
Cõi ngoài hưng phế thăng trầm
Mặc, người trên núi đâu cần biết chi
Một năm tính lại tính đi
Chẳng âu lo chẳng nghĩ suy nhọc nhằn
Cho nên người núi bao năm
Ai ai cũng sống đến trăm tuổi già
Hoa tùng quả bách đâu xa
Bạc đầu chốn ấy là nhà đó thôi!


(Hạt Cát 79 dịch)


[bài dịch 2] 


Chân núi có tùng cao
Trên núi có xóm vào
Ngọn tùng cao dưới núi
Vươn tới cổng trên cao
Người ở trong núi ấy
Quanh năm việc gì đấy?
Đàn bà xe sợi gai
Đàn ông nghề cầy cấy
Cấy cầy khi nhàn nhã
Xuống núi chặt cành tùng
Lo đủ tiền thuế má
Thơ văn chẳng bận bùng
Quan thuế mà không đến
Gà chó vui phởn phơ
Đá dầy cản xe ngựa
Hoa mọc báo tin mùa
Bên ngoài hưng hoặc phế
Trong núi biết gì đâu
Cứ một năm như thế
Chẳng lúc nào lo âu
Cho nên người trong núi
Ai nấy đều sống lâu
Hoa tùng quả bách mà ăn được
Bạc đầu về đó chứ về đâu


(Đặng Thế Kiệt dịch)