Nguyễn Du 阮攸 đi sứ Trung Quốc (1813-1814)
hv-ebook @ Bắc Hành Tạp Lục 北行雜錄 @ tác giả: Nguyễn Du 阮攸 @ Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn 漢越辭典摘引 online, chú thích: Đặng Thế Kiệt
Thursday, 27 July 2017
017 Thái Bình thành hạ văn xuy địch 太平城下聞吹笛
太平城外西風起
吹皺寧明一江水
江水皺兮江月寒
誰家橫笛憑欄杆
二十七人共回首
故鄉已隔萬重山
Thái Bình thành hạ văn xuy địch
Thái Bình thành ngoại tây phong khởi,
Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thủy.
Giang thủy trứu hề giang nguyệt hàn,
Thùy gia hoành địch bằng lan can.
Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ,
Cố hương dĩ cách vạn trùng san.
Dịch nghĩa: Dưới thành Thái Bình nghe thổi địch
Ngoài thành Thái Bình gió tây nổi lên
Làm cho nước sông Ninh Minh gợn sóng
Nước sông gợn sóng, trăng sông lạnh
Có người nào tựa lan can thổi sáo
Khiến cho hai mươi bảy người trong đoàn đều quay lại nhìn
Nhưng cố hương đã cách muôn trùng núi non
Dịch thơ: Dưới thành Thái Bình nghe thổi địch
Ngoài thành Thái Bình gió tây nổi
Nước sông Ninh Minh sóng gợn lan
Nước sông gợn sóng, trăng sông lạnh
Kìa ai thổi sáo tựa lan can
Hai mươi bảy người quay đầu lại
Cố hương đã cách núi muôn vàn
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Monday, 17 April 2017
021 Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu 題大灘馬伏波廟
鑿通嶺道定炎墟
蓋世功名在史書
向老大年矜矍鑠
除衣食外盡嬴餘
大灘風浪留前烈
古廟松杉隔故閭
日暮城西荊棘下
淫潭遺悔更何如
Phiên âm: Ðề Ðại Than (1) Mã Phục Ba (2) miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (3) khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước (4)
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư (5)
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ Thành Tây (6) kinh cức hạ
Dâm Ðàm (7) di hối cánh hà như
Nguyễn Du
Chú thích:
(1) Ðại Than: Một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
(2) Mã Phục Ba: Tức Mã Viện, danh tướng nhà Hán, thời vua Quang Vũ được phong là Phục Ba tướng quân
(3) Viêm: Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoa.
(4) Quắc thước: Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa. Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm!" (Quắc thước tại thị ông!).
(5) Tẫn doanh dư: Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói: "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả ruộng vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân".
(6) Thành Tây: Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành.
(7) Dâm Ðàm: Tên đầm. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi độc từ hồ bốc lên, diều hâu bay không được. Viện hối hận đã không nghe lời em mình.
Dịch nghĩa: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Ðục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa
Sóng gió Ðại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai gọc phía tây thành
Nỗi hận ở Dâm Ðàm, sau cùng ra làm sao?
Dịch thơ: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Chiếm Nam đục núi đắp đường,
Công danh sử sách lẫy lừng khắc ghi.
Tuổi cao quắc thước khoe gì,
Ngoài cơm áo có cần chi với đời.
Ðại Than sóng gió một thời,
Miếu xưa tùng bách xa vời cố hương.
Tây thành gai góc tà dương,
Dâm Ðàm nỗi hận quay cuồng tới đâu?
Hạt Cát 79 dịch
蓋世功名在史書
向老大年矜矍鑠
除衣食外盡嬴餘
大灘風浪留前烈
古廟松杉隔故閭
日暮城西荊棘下
淫潭遺悔更何如
Phiên âm: Ðề Ðại Than (1) Mã Phục Ba (2) miếu
Tạc thông lĩnh đạo định Viêm (3) khư
Cái thế công danh tại sử thư
Hướng lão đại niên căng quắc thước (4)
Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư (5)
Ðại Than phong lãng lưu tiền liệt
Cổ miếu tùng sam cách cố lư
Nhật mộ Thành Tây (6) kinh cức hạ
Dâm Ðàm (7) di hối cánh hà như
Nguyễn Du
Chú thích:
(1) Ðại Than: Một ghềnh lớn của sông Minh Giang hay Tả Giang. Truyền thuyết cho rằng Mã Viện đem quân sang nước ta đã phá thác, ghềnh để dễ đi thuyền. Cho nên những chỗ có ghềnh, thác trên các sông miền Nam Trung quốc đều có miếu thờ Mã Viện.
(2) Mã Phục Ba: Tức Mã Viện, danh tướng nhà Hán, thời vua Quang Vũ được phong là Phục Ba tướng quân
(3) Viêm: Nóng. Viêm bang chỉ những xứ nóng phía Nam Trung Hoa.
(4) Quắc thước: Mã Viện ngoài 60 tuổi còn xin vua đi đánh giặc. Vua Hán không cho, Viện mặc áo giáp nhảy lên ngựa. Vua cười khen : "Ông này quắc thước lắm!" (Quắc thước tại thị ông!).
(5) Tẫn doanh dư: Thiếu Dư, em họ của Mã Viện, nói: "Kẻ sĩ chỉ cần lo cơm áo cho đủ, ở quê hương trông nom mồ mả ruộng vườn. Cần gì vất vả đi kiếm công danh mà khổ thân".
(6) Thành Tây: Mộ Mã Viện chôn ở Tây Thành.
(7) Dâm Ðàm: Tên đầm. Mã Viện đem quân đánh Hai Bà Trưng mãi không được, phải lui quân về Lãng Bạc. Trời nóng bức, hơi độc từ hồ bốc lên, diều hâu bay không được. Viện hối hận đã không nghe lời em mình.
Dịch nghĩa: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Ðục xuyên qua đường Ngũ lĩnh, bình định cõi Nam
Công danh trùm đời ghi trên sử sách
Già lớn tuổi rồi còn khoe quắc thước
Ngoài cơm áo ra, mọi thứ là thừa
Sóng gió Ðại Than còn để dấu công oanh liệt thời trước
Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà
Chiều tà dưới đám gai gọc phía tây thành
Nỗi hận ở Dâm Ðàm, sau cùng ra làm sao?
Dịch thơ: Ðề miếu Mã Phục Ba ở thác Ðại Than
Chiếm Nam đục núi đắp đường,
Công danh sử sách lẫy lừng khắc ghi.
Tuổi cao quắc thước khoe gì,
Ngoài cơm áo có cần chi với đời.
Ðại Than sóng gió một thời,
Miếu xưa tùng bách xa vời cố hương.
Tây thành gai góc tà dương,
Dâm Ðàm nỗi hận quay cuồng tới đâu?
Hạt Cát 79 dịch
Monday, 27 March 2017
010 Trấn Nam Quan 鎭南關
李陳舊事杳難尋
三百年來直到今
兩國平分孤壘面
一關雄鎭萬山心
地扁每爲傳聞誤
天近纔知降澤深
帝闕回頭碧雲表
鈞韶耳畔有餘音
Phiên âm: Trấn Nam Quan (1)
Lý Trần cựu sự yểu nan tầm
Tam bách niên (2) lai trực đáo câm (kim)
Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện
Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm
Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm
Đế khuyết (3) hồi đầu bích vân biểu
Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.
Chú thích:
(1) Trấn Nam quan: Tên một cửa ải ở biên giới Việt-Hoa, từ tỉnh Lạng Sơn đến tỉnh Quảng Tây. Nguyễn Du đi qua cửa Nam Quan ngày 6 tháng 2 năm Quý Dậu (1813)
(2) Tam bách niên: Kể từ đầu nhà Lê (thế kỷ XV) đến nhà Nguyễn (thế kỷ XVIII) khoảng 300 năm.
(3) Thiên cận: Ý nói gần cửa Nam Quan là gần với Trung Quốc.
(4) Đế khuyết: Cửa nhà vua. Đây chỉ cung vua Nguyễn ở Phú Xuân.
(5) Quân thiều: Nhạc vua.
Dịch nghĩa: Trấn Nam Quan
Việc cũ đời Lý, Trần mờ mịt khó tìm
Cho đến nay đã ba trăm năm rồi
Mặt lũy lẻ loi phân chia rõ ràng hai nước
Một cửa ải hùng vĩ trấn đóng giữa lòng muôn núi
Nơi hẻo lánh thường nghe đồn đãi sai lạc
Gần trời mới biết ơn mưa móc thấm nhuần
Quay đầu nhìn về cửa đế khuyết (nhà vua) ngoài mây biếc
Bên tai còn vẳng khúc nhạc nhà vua
Dịch thơ: Trấn Nam Quan
Lý, Trần mờ mịt biết tìm đâu
Ba kỷ vụt qua cách dãi dầu
Trước mặt một mình chia Hán Việt
Giữa lòng muôn núi đứng nghìn thâu
Tiếng đồn hẻo lánh tin sai lạc
Mưa móc gần trời ơn thấm sâu
Đế khuyết nhìn về mây ánh biếc
Bên tai còn vẳng nhạc quân chầu.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Tuesday, 14 February 2017
099 Quản Trọng Tam Quy đài 管仲三歸臺
舊臺湮沒草離離
曾以桓公霸一時
郡縣城中空九合
莓苔石上記三歸
在朝巧與君心合
沒世終憐相業卑
喜値聖朝公覆燾
往來臺下雜華夷
Phiên âm: Quản Trọng (1) Tam Quy đài (2)
Cựu đài nhân một thảo li li
Tằng dĩ Hoàn Công (3) bá nhất thì
Quận huyện thành trung không cửu hợp
Môi đài thạch thượng kí Tam Quy
Tại Triều xảo dữ quân tâm hợp
Một thế chung liên tướng nghiệp ti
Hỉ trị thánh triêu công phúc đảo
Vãng lai đài hạ tạp Hoa Di
Chú thích:
(1) Quản Trọng: Tên là Di Ngô 夷吾, người đất Dĩnh Thượng 潁上 nước Tề 齊 (vùng Sơn Đông). Công nghiệp của Tề Hoàn Công 齊桓公 đều nhờ Quản Trọng giúp đỡ mà thành.
(2) Tam Quy đài: Đài cao ba tầng, ngụ ý rằng ba hạng người quy phục mình: dân quy phục, chư hầu quy phục, các rợ quy phục. Quản Trọng đã xa xỉ lại kiêu: chỉ bậc thiên tử mới đáng lập đài đó. Vì vậy Khổng Tử chê Quản Trọng là khí tượng nhỏ mọn, không biết điều lễ (Luận Ngữ - chương Bát Dật). Mạnh Tử chê "sự nghiệp tầm thường". (Sử ký của Tư Mã Thiên, Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê dịch, Lá Bối xuất bản, Sài gòn, Việt nam, 1972, trang 339).
(3) Hoàn Công: Tức Tề Hoàn Công 齊桓公.
Dịch nghĩa: Đài Tam Quy của Quản Trọng
Đài cũ chìm lấp, cỏ mọc tua tủa
Từng giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá một thời
Trong thành đã chín lần hợp các quận huyện
Trên đá rêu phủ còn ghi chữ "Tam Quy"
Ở triều đình khéo hợp lòng vua
Rốt cuộc chết, bị chê là tể tướng công nghiệp nhỏ mọn
Mừng gặp thánh triều che chở khắp
Dưới đài qua lại lẫn lộn người Hoa, người Di
Dịch thơ: Đài Tam Quy của Quản Trọng
Đài xưa mai một, cỏ hoang lên
Nghiệp bá Hoàn Công giúp đã nên
Chín lượt trong thành gom quận huyện
"Tam Quy" trên đá phủ rêu xanh
Ở triều khéo hợp lòng vua lớn
Khi chết đành mang nghiệp tướng hèn
Mừng gặp thánh triều che chở khắp
Hoa, Di đài dưới bước bon chen
(Đặng Thế Kiệt dịch)
098 Ðông lộ 東路
泰山山色滿青徐
千里山東縱目初
何處聖賢松柏下
別城絃誦魯鄒餘
他鄉顏狀頻開鏡
客路塵埃半讀書
行色匆匆歲雲暮
不禁憑式歎歸與
Phiên âm: Ðông lộ
Thái Sơn sơn sắc mãn Thanh, Từ,
Thiên lí Sơn Ðông (1) tống mục sơ.
Hà xứ thánh hiền (2) tùng bách hạ,
Biệt thành huyền tụng Lỗ, Trâu (3) dư.
Tha hương nhan trạng tần khai kính,
Khách lộ trần ai bán độc thư.
Hành sắc thông thông tuế vân mộ (4),
Bất câm bằng thức thán quy dư (5).
Dịch thơ: Ðông lộ
Xanh mướt Từ, Thanh núi một màu,
Giang Ðông nghìn dặm mắt gồm thâu.
Thánh hiền bóng khuất gian tùng bá,
Ðàn sách thành lưa nếp Lỗ, Trâu.
Ðường hé quyển vàng khuây gió bụi,
Trạm lau gương sáng ngắm mày râu.
Hành trình vọi vọi năm hầu hết,
Nhớ chữ "quy dư" thổn thức sầu.
Quách Tấn dịch
(Tố Như thi, An Tiêm tái bản, Paris 1995)
Chú thích:
(1) Sơn Ðông: Ðoàn đi sứ, Nguyễn Du cầm đầu, khi đi thì đi từ Thăng Long đến Võ Xương, rồi lên ngả Sơn Tây để đến Yên Kinh. Ðến khi về lại xuống Sơn Ðông đến Võ Xương để về Thăng Long.
(2) Thánh hiền: chỉ thầy Mạnh và đức Khổng.
(3) Lỗ, Trâu: quê hương của Khổng Mạnh.
(4) Tuế vân mộ: Năm đã muộn. Ðoàn sứ giả về nước vào cuối năm Quý Dậu (1813).
(5) Quy dư: "Về thôi!". Khổng Tử chu du khắp các nước chư hầu, không được vua nào tin dùng, nên than: "quy dư! quy dư!". Nhân đi qua đất cũ của thánh hiền, nên mới nảy ra tứ "soi gương", "đọc sách". Và vì đất cũ của thánh hiền, nên dù thánh hiền không còn thấy, mà dư phong vẫn còn nơi tiếng đàn, tiếng đọc sách.
Monday, 28 March 2016
081 Trở binh hành 阻兵行
金鏘鏘鐵錚錚
車馬馳驟雞犬鳴
小戶不閉大戶閉
扶老攜幼移入城
本地六月至九月
滑濬二縣齊稱兵
賊殺官吏十八九
滿城西風吹血腥
更有山東直隸遙
相應
白蓮異術多神靈
州官聞賊至
挑燈終夜籍民丁
州弁聞賊至
磨礪刀劍戛戛鳴
州人聞賊至
三三五五交頭細
語聲咿嚶
行人遠來不解事
但聞城外進退皆
炮聲
河南一路皆振動
羽檄急發如飛星
滾滾塵埃蔽天日
步騎一蹤復一橫
騎者彎角弓
長箭滿壺白羽翎
步者肩短槊
新磨鐵刃懸朱纓
又有新點丁壯之
兵器
削竹爲鎗皮上青
大車載弓
小車裝尖釘
終日往來無暫停
數百里地遍戈甲
道路壅塞無人行
長送長嘆短送默
進退維谷難爲情
昨日黄河水大至
五日無食棲沙汀
今日衛州阻盜賊
不知前路何時清
安得風車日萬里
飛身一息來天京
吾聞內顧頻年苦
荒旱
只有春作無秋成
湖南河南久無雨
自春徂秋田不耕
大男小女頻饑色
糠枇爲食藜爲羹
眼見饑莩死當道
懷中棗子身邊傾
空戶壁上有查字
數百餘戶皆饑零
小民不忍寒且饑
苟圖飽燠身爲輕
黄池弄甲不足道
稍加存恤當自平
民死在歲不在我
勿得欺心蔽聖明
昨見新鄭城門粘
榜示
按戶給粟蘇殘氓
黄河以北麥又熟
百日而輩妻子皆
得生
歸來歸來勿作死
撫官惠保如父兄
Trở binh hành
Kim thương thương thiết tranh tranh
Xa mã trì sậu kê khuyển minh
Tiểu hộ bất bế đại hộ bế
Phù lão huề ấu di nhập thành
Bổn địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
Hoạt Tuấn (1) nhị huyện tề xưng binh
Tặc sát quan lại thập bát cửu
Mãn thành tây phong xuy huyết tinh
Cánh hữu Sơn Đông Trực Lệ (2) dao tương ứng
Bạch Liên (3) dị thuật đa thần linh
Châu quan văn tặc chí
Thiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
Châu biễn văn tặc chí
Ma lệ đao kiếm kiết kiết minh
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải sự
Đãn văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
Vũ hịch cấp phát như phi tinh
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
Bộ kị nhất tung phục nhất hoành
Kị giả loan giác cung
Trường tiễn mãn hồ bạch vũ linh
Bộ giả kiên đoản sóc
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
Tước trúc vi thương bì thượng thanh
Đại xa tải cung
Tiểu xa trang tiêm đinh
Chung nhật vãng lai vô tạm đình
Sổ bách lí địa biến qua giáp
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
Trường tống trường thán đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc (4) nan vi tình
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
Kim nhật Vệ châu (5) trở đạo tặc
Bất tri tiền lộ hà thì thanh
An đắc phong xa nhật vạn lí
Phi thân nhất tức lai thiên kinh
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh
Nhãn kiến cơ phu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
Không hộ bích thượng hữu tra tự
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cẩu đồ bão úc thân vi khinh
Hoàng trì lộng giáp (6) bất túc đạo
Sảo gia tồn tuất đương tự bình
Dân tử tại tuế bất tại ngã (7)
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
Tạc kiến Tân Trịnh (8) thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
Quy lai quy lai vật tác tử
Phủ quan huệ bảo như phụ huynh
Chú thích
(1) Hoạt 滑, Tuấn 濬: Hai huyện ở phía bắc tỉnh Hà Nam.
(2) Sơn Ðông 山東, Trực Lệ 直隸: Tỉnh ở phía đông và phía bắc sông Hoàng Hà.
(3) Bạch Liên 白蓮: Giáo phái ra đời từ cuối thời Nguyên.
(4) duy cốc: Thi Kinh 詩經: Tiến thối duy cốc 進退維谷 (Đại nhã 大雅, Tang nhu 桑柔) Tiến thoái đều cùng đường.
(5) Vệ châu 衛州: Châu nhỏ thuộc tỉnh Hà Nam.
(6) Hoàng trì lộng giáp 黄池弄甲: Hán Thư: Dân đói làm loạn chỉ như trẻ con chơi trò binh khí trong vũng ao.
(7) Dân tử tại tuế bất tại ngã 民死在歲不在我: Sách Mạnh Tử: Dân chết tại năm mất mùa không phải tại ta (lời vua quan).
(8) Tân Trịnh 新鄭: Huyện phía nam tỉnh Hà Nam.
Dịch nghĩa:
Bài hành về việc binh đao làm nghẽn đường
Đồ đồng đồ sắt leng keng loảng xoảng
Xe ngựa chạy rầm rập, gà chó kêu
Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng cửa
Dìu già dắt trẻ dời vào trong thành
Ðất này từ tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Quan lại mười người, giặc giết tám chín người
Ðầy thành gió tây thổi mùi máu tanh
Lại thêm Sơn Ðông, Trực Lệ từ xa hưởng ứng
Bạch Liên giáo có nhiều phép thuật thần linh
Quan châu nghe tin giặc đến
Khêu đèn suốt đêm lập sổ đinh
Quan võ nghe tin giặc đến
Mài dao liếc kiếm kêu két két.
Dân trong châu nghe tin giặc đến
Túm ba, tụm năm châu đầu nói xì xào
Khách từ xa đến không hiểu chuyện gì
Chỉ nghe ngoài thành lui tới đều theo tiếng pháo lệnh
Cả miền Hà Nam đều chấn động
Hịch lệnh cấp tốc như sao bay
Bụi cuốn che lấp mặt trời
Bộ binh kị binh chạy dọc ngang
Kị binh giương cung sừng
Tên dài gắn lông chim trắng để đầy bầu
Bộ binh vác giáo ngắn
Mũi thép mới mài, tua đỏ treo lủng lẳng
Lại có binh khí của tráng binh mới gọi
Vót trúc làm giáo, vỏ còn xanh
Xe lớn chở cung dây
Xe nhỏ chở chông nhọn
Suốt ngày qua lại không ngừng
Mấy trăm dặm chỗ nào cũng có binh lính
Ðường sá bế tắc, không người đi
Người đưa tiễn xa than dài, người đưa tiễn gần im lặng
Tới lui đều trong tình trạng khó khăn
Hôm qua nước Hoàng Hà dâng cao
Năm ngày không có ăn, đậu thuyền trên bãi sông
Hôm nay ở Vệ Châu giặc cướp chận đường
Không biết đường trước mặt bao giờ yên
Sao được xe gió một ngày đi vạn dặm
Bay vù một mạch đến thiên kinh
Ta nghe dân trong vùng nhiều năm khổ đại hạn
Chỉ có cầy cấy mà không có thu hoạch
Hồ Nam, Hà Nam đã lâu không mưa
Từ xuân tới thu ruộng bỏ không cày
Trai lớn gái nhỏ vẻ ốm đói
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh
Tận mắt thấy người đói chết trên đường
Hột táo trong bọc lăn bên mình
Nhà bỏ không, có chữ 'tra' (xét) trên vách
Mấy trăm nhà đều trôi giạt vì đói
Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói
Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân
(Dân đói làm loạn chỉ như trẻ con) chơi đùa binh khí trong vũng ao, không đáng nói
Xét thương một chút là yên ngay
'Dân chết vì năm mất mùa, chẳng phải tại ta' (vua quan)
Ðừng dối lòng che mắt thánh minh.
Hôm trước thấy cửa thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị:
'Xét theo từng nhà mà cấp lúa cứu dân sống sót.
'Phía bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín
'Trăm ngày nữa vợ con các người đều được sống
'Về đi về đi, chớ có liều chết
'Quan phủ gìn giữ dân như cha anh'
Dịch thơ:
Việc binh đao làm nghẽn đường (bài hành)
Sắt loảng xoảng, đồng lanh canh
Gà chó kêu, xe ngựa chạy nhanh
Nhà nghèo cửa ngỏ, nhà giàu đóng
Dìu già dắt trẻ vô trong thành
Ðất này tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Quan lại mười người, giết tám chín
Ðầy thành gió thổi máu mùi tanh
Sơn Ðông, Trực Lệ xa tương ứng
Bạch Liên giáo thuật lắm thần linh
Quan nha nghe giặc đến
Khêu đèn đêm lập sổ dân đinh
Quan võ nghe giặc đến
Liếc kiếm, mài dao tiếng rợn mình
Nhân dân nghe giặc đến
Ðầu tụm năm ba bàn tán quanh
Khách đến từ xa không hiểu chuyện
Lui tới đều theo pháo lệnh thành
Cả miền Hà Nam cùng chấn động
Hịch lệnh như sao tới tấp nhanh
Mặt trời che khuất bụi mù mịt
Chạy dọc ngang quân bộ, kị binh
Kị binh giương cung sừng
Ðầy bầu tên có gắn lông chim
Bộ binh vác giáo ngắn
Mũi mới mài, tua đỏ rung rinh
Lại thêm binh khí quân lính mới
Giáo dài trúc vót, vỏ còn xanh
Xe lớn chở cung tên
Xe nhỏ chở chông nhọn
Suốt ngày qua lại chạy liên miên
Mấy trăm dặm đất đâu cũng lính
Bế tắc đường đi, vắng bộ hành
Tiễn xa than lớn, gần im lặng
Lui tới đều chung cảnh khó khăn
Hôm trước Hoàng Hà dâng nước lớn
Năm ngày thuyền đậu chẳng gì ăn
Châu Vệ hôm nay giặc chận cướp
Ðường trước bao giờ mới được yên
Ước gì xe gió ngày muôn dặm
Bay vù một mạch đến Yên kinh
Nghe nói nhiều năm dân khổ hạn
Chỉ cấy cầy chẳng được thu ăn
Hồ Nam, Hà Nam mưa không có
Xuân thu ruộng bỏ chẳng ai làm
Gái trai lớn bé xanh xao mặt
Cám thế cơm, rau lê nấu canh
Mắt thấy giữa đường người chết đói
Trong bao hột táo lăn bên mình
Nhà không, chữ 'xét' ghi trên vách
Hàng trăm nhà đói khát linh đinh
Dân mọn sao kham đói lại lạnh
Vì miếng ăn, thân mạng coi khinh
'Dân đói loạn ao', thôi khỏi nói
Xét thương một chút sẽ yên lành
Dân chết cứ bảo vì năm xấu
Chớ dối lòng che mắt thánh minh
Hôm trước Tân Trịnh cửa thành dán cáo thị:
'Xét nhà cấp gạo cứu dân lành
'Hoàng Hà phía bắc lúa gần chín
'Trăm ngày con cái được tồn sinh
'Về đi về đi, đừng liều chết
'Phủ quan che chở như cha anh'
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Subscribe to:
Posts (Atom)