Thương Ngô, mùa hè năm Quý Dậu (1813). Vài nét chấm phá với 15 bài tứ tuyệt, Nguyễn Du như vẽ ra cảnh sống thường ngày vùng sông nước: mưa lụt gió bão, du thuyền nhộn nhịp, lá rụng tơ bay, cúng vái đền miếu, bơi đua thuyền rồng... Đến cả dáng điệu cô gái giận chồng không thèm nói chuyện với ai bên cửa sổ thuyền.
chú thích
(1) Thương Ngô 蒼梧: Ðất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay. Trúc Chi Ca 竹枝歌, còn gọi là Trúc Chi Từ 竹枝詞, nguyên là một loại dân ca của nước Ba Thục 巴蜀 (Tứ Xuyên và Trùng Khánh ngày nay).
(2) Quế Lâm 桂林: Thị trấn trên sông Quế Giang 桂江, ngày nay là thủ phủ tỉnh Quảng Tây 廣西.
(3) Văn Xương các 文昌閣: Đền thờ Văn Xương đế quân 文昌帝君, vị thần chủ việc học và văn học.
(4) Cửu Nghi 九疑: Núi có chín ngọn cao ở huyện Ninh Viễn 寧遠 tỉnh Hồ Nam.
(5) Nhị Phi 二妃: Tức Nga Hoàng 蛾皇 và Nữ Anh 女英, hai bà hậu và phi của vua Thuấn.
(6) Hành Dương 衡陽: Đất thuộc tỉnh Hồ Nam 湖南 ngày nay.
(7) Tì bà thanh 琵琶聲: Tiếng đàn của hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh. Vua Thuấn đi tuần phương nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm và tự trầm chết theo chồng bên dòng sông Tương.
(8) Kê Lung 雞籠: Tên núi, hình giống lồng gà.
(9) Thiên Phi 天妃: Chỉ hai bà phi của vua Thuấn, tức Nga Hoàng và Nữ Anh.
(10) Ban trúc 斑竹: Vua Thuấn đi tuần phương Nam, chết ở Thương Ngô. Hai phi Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, khóc nước mắt nhỏ xuống những cây trúc thành vết lốm đốm.
(11) Vũ Tiền trà 雨前茶: Loại trà xanh rất ngon, hái vào ngày 20 hoặc 21 tháng tư âm lịch, trước tiết Cốc Vũ 穀雨.
(12) Linh Quân 靈均: Tức Khuất Nguyên 屈原 (352-281 trước CN). Khuất Nguyên trầm mình ở sông Mịch La 汨羅.
(13) Hoa thuyền 花船: (a) Thuyền trang sức đẹp đẽ. (b) Thuyền chở ca kĩ chiêu đón khách.
(一)
桂林新潦涌長川
水屋憑高欲上天
午後東風吹更急
往來無數廣東船
Thương Ngô (1) Trúc Chi ca (I)
Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên
Thủy ốc bằng cao dục thướng thiên
Ngọ hậu đông phong xuy cánh cấp
Vãng lai vô số Quảng Đông (2) thuyền
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài I)
Quế Lâm mới lụt, nước sông dâng to
Nhà bè nổi cao muốn tới trời
Sau trưa gió đông thổi càng gấp
Bao nhiêu là thuyền Quảng Đông qua lại
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài I)
Quế Lâm lụt mới dâng trào
Nhà bè nước nổi muốn cao tận trời
Quá trưa, gió thổi tơi bời
Quảng Đông vô số ngược xuôi những thuyền
(二)
文昌閣上夜燈明
一片寒光射水晶
來往遊船不知數
滿江齊發棹哥聲
Văn Xương (3) các thượng dạ đăng minh
Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh
Lai vãng du thuyền bất tri số
Mãn giang tề phát trạo ca thanh
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
Trên gác Văn Xương, đêm đèn sáng rực
Một mảng sáng lạnh chiếu như thủy tinh
Du thuyền qua lại nhiều vô số
Đầy sông vang lên tiếng hát chèo thuyền
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
文昌閣上夜燈明
一片寒光射水晶
來往遊船不知數
滿江齊發棹哥聲
Văn Xương (3) các thượng dạ đăng minh
Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh
Lai vãng du thuyền bất tri số
Mãn giang tề phát trạo ca thanh
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
Trên gác Văn Xương, đêm đèn sáng rực
Một mảng sáng lạnh chiếu như thủy tinh
Du thuyền qua lại nhiều vô số
Đầy sông vang lên tiếng hát chèo thuyền
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài II)
Đêm đèn sáng rực gác Văn Xương
Ánh lạnh chiếu lên loáng nước gương
Qua lại du thuyền vô số kể
Đua chèo ca hát rộn ràng sông
(三)
雨自滂沱雲自癡
九疑山色望中疑
虞王葬處無丘墓
水面絃聲似二妃
Vũ tự bàng đà vân tự si
Cửu Nghi (4) sơn sắc vọng trung nghi
Ngu vương táng xứ vô khâu mộ
Thủy diện huyền thanh tự nhị phi (5)
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài III)
Mưa như ràn rụa, mây như thẫn thờ
Màu núi Cửu Nghi trông không rõ
Chỗ táng vua Ngu không có gò mộ
Tiếng đàn trên mặt nước như là của hai phi
https://k.sina.cn/article_1687339243_6492c0eb00100fdcp.html?from=cul
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài III)
Tầm tã mưa rơi, mây thẫn thờ
Cửu Nghi màu núi cũng lu mờ
Vua Ngu Thuấn chết không phần mộ
Sóng nước hai phi gởi tiếng tơ
(四)
青山樓閣一層層
晝見煙霞夜見燈
古寺無名難問訊
白雲深處臥山僧
Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng
Trú kiến yên hà dạ kiến đăng
Cổ tự vô danh nan vấn tấn
Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài IV)
Lầu gác trên núi xanh tầng này nối tầng khác
Ngày nhìn thấy khói ráng, đêm nhìn thấy đèn
Chùa cổ không tên, khó hỏi thăm
Ở nơi đầy mây trắng, nhà sư trên núi nằm
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài IV)
Núi xanh lầu gác lắm tầng
Ngày nhìn khói ráng, đêm trông ánh đèn
Chùa xưa khó hỏi tìm tên
Núi cao mây trắng, sư yên chốn nằm
浪花雙棹疾如飛
看罷龍舟抵暮歸
生面相逢無畏避
瓠犀微露笑南夷
Lãng hoa song trạo tật như phi
Khán bãi long chu để mộ quy
Sinh diện tương phùng vô úy tị
Hồ tê vi lộ tiếu Nam di
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài V)
Hai chèo tung sóng hoa, thuyền lướt như bay
Xem đua thuyền rồng xong, đến tối mới về
Mặt lạ gặp nhau không tránh né
Hàm răng hạt bầu hé cười người Nam di
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (bài V)
Chèo tung hoa sóng lướt như bay
Xem hết đua thuyền, tối mới về
Mặt lạ gặp nhau không tránh né
Hạt bầu răng hé cười Nam di
(六)
一聲裂竹散硫磺
驚起沙汀鴈數行
天際遙瞻歸去處
蒼梧北上定衡陽
Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng
Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng
Thiên tế dao chiêm quy khứ xứ
Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương (6)
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VI)
Một tiếng pháo trúc nổ tỏa khói lưu hoàng
Làm kinh động mấy hàng chim nhạn vút lên từ bãi cát
Vời trông chốn đi đến xa tít tắp phía chân trời
Từ Thương Ngô đi theo hướng bắc hẳn là đến Hành Dương
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VI)
Tiếng đùng pháo trúc khói lưu hoàng
Kinh động hàng chim vút bãi hoang
Ngóng vọng phương trời xa diệu vợi
Thương Ngô hướng bắc hẳn Hành Dương
(七)
長江破浪渺無涯
三五遊船趁夜開
無月無燈看不見
琵琶聲自水中來
Trường giang phá lãng diểu vô nhai
Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai
Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến
Tì bà thanh (7) tự thủy trung lai
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VII)
Sông dài lớn, sóng nổi mông lung không bờ bến
Năm ba du thuyền lướt nhanh xé màn đêm
Không trăng, không đèn, nhìn chẳng thấy gì cả
Nghe tiếng tì bà từ dưới nước vọng lên
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VII)
Sông dài khói sóng nước mông mênh
Dăm chiếc du thuyền lướt bóng đêm
Trăng vắng, đèn không, nhìn chẳng thấy
Tiếng tì nghe vẳng đáy sông lên
(八)
雞籠山在水中央
萬頃煙波共渺茫
相約東家具舟楫
天妃閣上共焚香
Kê Lung (8) sơn tại thủy trung ương
Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang
Tương ước đông gia cụ chu tiếp
Thiên phi (9) các thượng cộng phần hương
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VIII)
Núi Kê Lung ở giữa lòng nước
Muôn khoảng khói sóng đều mênh mang mờ mịt
Hẹn với nhà xóm đông chuẩn bị thuyền chèo
Cùng nhau lên gác Thiên phi thắp hương
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VIII)
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (VIII)
Giữa lòng sông mọc núi Kê Lung
Sóng nước mênh mang khói mịt mùng
Hẹn với nhà đông thuyền mái sẵn
Gác Thiên phi đến thắp hương cùng
(九)
城北山榴紅更紅
城南垂柳不禁風
絮飛花落無人管
一夜隨流到廣東
Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng
Thành nam thùy liễu bất câm phong
Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản
Nhất dạ tùy lưu đáo Quảng Đông
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IX)
Phía bắc thành, hoa sơn lựu đỏ, càng đỏ thêm
Phía nam thành, liễu rủ không đương nổi với gió
Tơ bay, hoa rụng không ai để ý
Một đêm chảy theo dòng nước đến Quảng Ðông
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (IX)
Bắc thành sơn lựu đỏ hoa
Nam thành liễu chắn gió qua như thường
Tơ bay, hoa rụng ai thương
Quảng Ðông một tối theo trường giang đi
(十)
斑竹煙筒尺二長
茶甌浮動雨前香
一來一往無人問
獨倚船窗正恨郞
Ban trúc (10) yên đồng xích nhị trường
Trà âu phù động Vũ Tiền (11) hương
Nhất lai nhất vãng vô nhân vấn
Độc ỷ thuyền song chính hận lang
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (X)
Ống điếu làm bằng trúc đóm dài thước hai
Bình trà tỏa hương trà Vũ Tiền hương
Qua lại không ai hỏi han gì
Một mình dựa cửa sổ thuyền, đúng là gái đang giận chồng
https://k.sina.cn/article_1687339243_6492c0eb00100fdcp.html?from=cul
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (X)
Điếu thước hai, bằng trúc đốm bông,
Vũ Tiền trà tỏa đượm hương nồng.
Người qua kẻ lại không thèm hỏi,
Dựa cửa thuyền đúng gái giận chồng.
(十一)
十隻龍舟一字陳
敲鑼撾鼓吊靈均
黃花閨女貪行樂
跳出船頭不避人
Thập chích long chu nhất tự trần
Xao la qua cổ điếu Linh quân (12)
Hoàng hoa khuê nữ tham hành lạc
Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XI)
Mười chiếc thuyền rồng bày hàng chữ "nhất"
Khua chiêng đánh trống viếng Linh Quân
Cô gái cài hoa cúc ham vui
Nhảy ra đầu thuyền không tránh né ai
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XI)
Mười chiếc thuyền rồng thẳng một hàng
Vang rền chiêng trống điếu Linh Quân
Ham vui cô gái cài hoa cúc
Nhảy vọt đầu thuyền chẳng nể nang
(十二)
棠舟蘭棹日繽紛
往往來來不厭頻
記取畫船三五隻
最風流是布衣人
Đường chu lan trạo nhật tân phân
Vãng vãng lai lai bất yếm tần
Kí thủ họa thuyền tam ngũ chích
Tối phong lưu thị bố y nhân
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XII)
Thuyền bằng gỗ đường, chèo bằng gỗ lan suốt ngày nhộn nhịp
Qua qua lại lại biết bao nhiêu lần
Nhớ lấy năm ba chiếc thuyền có vẽ hình
Bậc phong lưu nhất chính là những người áo vải
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô (XII)
Thuyền quế chèo lan sóng dập dìu
Qua qua lại lại biết bao nhiêu
Dăm ba thuyền vẽ còn ghi nhớ
Áo vải phong lưu rộn sớm chiều
(十三)
沿城楊柳不勝柔
葉葉絲絲未及秋
好向風前看摇曳
最顚狂處最風流
Duyên thành dương liễu bất thăng nhu
Diệp diệp ti ti vị cập thu
Hảo hướng phong tiền khán dao duệ
Tối điên cuồng xứ tối phong lưu
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XIII]
Ven thành dương liễu mềm mại biết bao
Lá lá tơ tơ chưa vào thu
Ta thích nhìn chúng lay động trước gió
Lúc chúng bay cuồng loạn nhất chính là lúc tuyệt vời hơn cả
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XIII]
Ven thành dương liễu mịn như mơ
Chưa đến thu mà lá với tơ
Bay loạn tưng bừng xa trước gió
Đứng nhìn mê mải quá nên thơ
(十四)
長裙褶褶曳輕綃
雲髻峨峨擁翠翹
贏得鬼頭滿囊口
憑君無福也能消
Trường quần tập tập duệ khinh tiêu
Vân kế nga nga ủng thúy kiều
Doanh đắc quỉ đầu mãn nang khẩu
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XIV]
Quần dài lướt thướt, áo chẽn mỏng
Búi tóc cao, cài trâm thúy
Kiếm được tiền nhét đầy túi
Dù biết là vô phúc, cứ vung xài
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XIV]
Quần là, áo lượt thướt tha bay
Tóc búi đầu cao, trâm thúy cài
Tiền bạc kiếm về mang chật túi
Dù cho vô phúc cứ vung xài
(十五)
船尾燈籠四尺竿
船頭畫虎黑斑斑
布旂上寫巡河字
只詰花船不詰奸
Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can
Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban
Bố kì thượng tả "Tuần hà" tự
Chỉ cật hoa thuyền (13) bất cật gian
Dịch nghĩa:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XV]
Đuôi thuyền treo lồng đèn, sào dài bốn thước
Đầu thuyền vẽ hổ đen sì
Trên cờ vải ghi chữ "Tuần sông"
Chỉ hạch hỏi thuyền chơi, chẳng xem xét kẻ gian gì cả
Dịch thơ:
Ca điệu Trúc Chi đất Thương Ngô [XV]
Sào bốn thước dài, đuôi gắn đèn
Đầu thuyền vẽ cọp đen như than
"Tuần sông" chữ viết trên cờ vải
Chỉ hỏi thuyền hoa chẳng hạch gian
(Đặng Thế Kiệt dịch)
No comments:
Post a Comment