Search This Blog

Monday 13 April 2015

053-054 Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu 湘潭弔三閭大夫


Nguyễn Du đến Trường Sa 長沙 (tỉnh Hồ Nam 湖南) ngày 18-7 năm Quý Dậu (1813). Xưa kia, Khuất Nguyên 屈原 (352-281 trước CN) bị đày ra đây.
Nơi nào gởi mối thương tâm,
Lá thu gió rụng nẻo tầm Nguyên Tương.


lan tím (photo VP @huediepchi)









 

Kì I

Tương Đàm (1) điếu Tam Lư đại phu (2)

Hiếu tu (3) nhân khứ nhị thiên tải,
Thử địa do văn lan chỉ (4) hương.
Tông quốc tam niên bi phóng trục,
Sở từ (5) vạn cổ thiện văn chương.
Ngư long giang thượng vô tàn cốt,
Đỗ nhược (6) châu biên hữu chúng phương.
Cực mục thương tâm hà xứ thị,
Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương (7).


Chú thích


(1) Tương Đàm 湘潭: Tên một huyện ở tỉnh Hồ Nam 湖南.
(2) Tam Lư Đại Phu 三閭大夫: Tức Khuất Nguyên 屈原 (352-281 trước CN). Người nước Sở, thời Chiến Quốc, làm quan đến chức Tam Lư Đại Phu. Lúc đầu được vua Sở tin dùng, bằng lòng thi hành chủ trương chính trị của ông. Nhưng sau vua nghe lời bọn nịnh thần, đày ông đi Trường Sa 長沙. Ông theo dòng sông Tương đến sông Mịch La 汨羅. Ông buồn bã làm ra Li Tao 離騷. Rồi ngày mùng 5 tháng 5 nhảy xuống sông tự trầm.
(3) Hiếu tu 好修: Thích sửa sang đức tốt. Trong Li Tao có câu: Dư độc hiếu tu dĩ vi thường 余獨好修以為常.
(4) Lan chỉ 蘭芷: Khuất Nguyên 屈原: Hỗ giang li dữ tích chỉ hề, Nhân thu lan dĩ vi bội 扈江離與辟芷兮, 紉秋蘭以為佩 (Li tao 離騷) Giắt cỏ giang li và tích chỉ hề, Kết hoa thu lan để đeo.
(5) Sở Từ 楚詞: Thi ca nước Sở. Li Tao nằm trong bộ Sở Từ. Bộ này gồm tác phẩm của nhiều người, song những tác phẩm này đều có sau Li Tao và đều do Li Tao mà có, nên Li Tao được coi như nguồn gốc của Sở Từ. Li Tao ra đời sau Kinh Thi, tập thơ cổ nhất của Trung Quốc. Hai bộ sách này là nguồn gốc của thi ca Trung Quốc, và có ảnh hưởng rất lớn đối với nền cổ văn học Việt Nam.
(6) Đỗ nhược 杜若: Một thứ cỏ thơm. Trong Li Tao có câu: Chiết nhược mộc dĩ phất nhật hề 折若木以拂日兮 Bẻ cành nhược mộc chăng ngang mặt trời (Nhượng Tống dịch).
(7) Nguyên Tương 沅湘: Tên gọi chung hai con sông Nguyên Thủy 沅水 và Tương Thủy 湘水 ở tỉnh Hồ Nam.

Dịch nghĩa:
Qua Tường Đàm điếu Khuất Nguyên (I)


Người hiếu tu đi đã hai nghìn năm
Đất này còn nghe mùi hương của cỏ lan cỏ chỉ
Ba năm buồn rầu cảnh bị đày xa tổ quốc
Muôn thuở tốt đẹp giá văn chương của Sở từ
Trên sông cá rồng, không thấy nắm xương tàn
Bên bãi đỗ nhược, có nhiều giống cỏ thơm
Hết tầm mắt nhìn xem, nơi nào là nơi thương tâm
Khi đi ngang qua sông Nguyên sông Tương trong mùa gió thu lá rụng


Dịch thơ:
Qua Tương Đàm điếu Khuất Nguyên (I)


Hai nghìn năm vắng người sửa đức,
Nơi đây còn thơm phức chỉ lan.
Ba năm đất trích phũ phàng,
Sở từ muôn thuở rỡ ràng văn chương.
Sông cá rồng nắm xương khôn giữ,
Bãi hoa lồng trăm thứ cỏ thơm.
Nơi nào gởi mối thương tâm,
Lá thu gió rụng nẻo tầm Nguyên Tương.


(Quách Tấn dịch)











 

Kì II

Sở quốc oan hồn táng thử trung,
Yên ba nhất vọng diểu hà cùng.
Trực giao hiến lệnh (8) hành thiên hạ,
Hà hữu Li Tao kế Quốc phong (9)?
Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh (10),
Tứ phương hà xứ thác cô trung (11)?
Cận thời mỗi hiếu vi kì (12) phục,
Sở bội tiêu lan (13) cánh bất đồng.


Chú thích


(8) Hiến lệnh 憲令: Pháp lệnh. Khuất Nguyên làm ra Pháp lệnh để cho vua Sở dùng trị quốc. Vua Sở nghe lời bọn gian thần không dùng, và đày Khuất Nguyên ra Trường Sa. Ra Trường Sa, Khuất Nguyên làm ra sách Li Tao để giải tỏa nỗi lòng uất ức.
(9) Quốc Phong 國風: Đây chỉ Kinh Thi. Trong Kinh Thi có thể Phong, gọi là Quốc Phong, thể Nhã gọi là Nhã Phong, thể Tụng gọi là Tụng Phong. Quốc Phong chiếm phần lớn nên gọi Kinh Thi là Quốc Phong. Kinh Thi là một tập thơ cổ nhất của Trung Quốc. Sau Kinh Thi đến Li Tao của Khuất Nguyên. Hai bộ sách này là nguồn gốc của thi ca Trung Quốc, và có ảnh hưởng rất lớn với nền cổ văn học Việt Nam.
(10) Độc tỉnh 獨醒: Tình một mình. Khuất Nguyên 屈原: Cử thế giai trọc ngã độc thanh, chúng nhân giai túy ngã độc tỉnh 舉世皆濁我獨清, 眾人皆醉我獨醒 (Sở từ 楚辭) Cả đời đều đục mình ta trong, mọi người đều say cả, mình ta tỉnh.
(11) Cô trung 孤忠: Lòng trung ôm ấp, riêng mình biết riêng mình hay
(12) Kì phục 奇服: Ăn mặc lạ. Khuất Nguyên nói rằng: Lúc trẻ ta ham đồ phục sức lạ, gươm dài, mũ cao...
(13) Tiêu lan 椒蘭: Hoa tiêu hoa lan. Câu 8 này ngụ ý chê người đương thời muốn bắt chước bề ngoài của Khuất Nguyên. Bề ngoài cũng đeo hoa lan hoa tiêu, phục sức chẳng khác Khuất Nguyên, nhưng bên trong thì khác hẳn nhau.

Dịch nghĩa:
Đến Tường Đàm điếu Khuất Nguyên (II)


Hồn oan người nước Sở chôn trong nơi này
Khói sóng một trông bao la không cùng tận
Nếu hiến lệnh được ban hành trong thiên hạ
Thì làm gì có Li Tao kế tiếp Quốc Phong
Từ nghìn xưa đến nay ai là người thương kẻ độc tỉnh?
Khắp bốn phương trời biết nơi nào mà gởi tấm cô trung
Gần đây ai nấy đều thích ăn mặc lạ
Nhưng hoa tiêu hoa nay và xưa lại không đồng


Dịch thơ:
Qua Tương Đàm điếu Khuất Nguyên (II)


Nơi đây chôn hồn oan Sở quốc,
Mắt muôn trùng khói nước chơi vơi.
Ví ban hiến lệnh xuống đời,
Li Tao đâu để nối lời Quốc Phong?
Hồn độc tỉnh ai lòng tưởng tới?
Niềm cô trung biết gởi phương nao?
Đời nay chuộng lạ xiết bao,
Đeo lan giắt ngọc nhưng nào giống xưa!


(Quách Tấn dịch)


tham khảo

 

Tố Như thi, Quách Tấn trích dịch, An Tiêm tái bản, Paris, France, 1995
離騷經: http://ctext.org/chu-ci/li-sao-jing/zh
http://zh.wikipedia.org/wiki/屈原




 

No comments:

Post a Comment