Search This Blog

Tuesday 7 April 2015

048 Đề Vi Lư tập hậu 題韋盧集後










 

Thi nhân bất đắc kiến
Kiến thi như kiến nhân
Đại sơn hưng bảo tạng
Độc hạc xuất phong trần
Châm giới (3) dị tương cảm
Việt Hồ nan tự thân
Tam Đường (4) thiên tải hậu
Tịch mịch cửu vô văn


Dịch nghĩa:
Đề sau tập thơ của hai họ Vi (1) và Lư (2)


Không được thấy nhà thơ
Thấy thơ như thấy người
Núi lớn chứa đầy của báu
Hạc lẻ bay ra ngoài gió bụi
Cây kim hạt cải dễ cảm ứng với nhau
Kẻ Hồ người Việt khó thân cận
Sau Tam Đường nghìn năm
Vắng vẻ quá lâu không nghe tiếng nữa


Chú thích


(1) Vi: Vi Ứng Vật 韋應物 (737-792) người đời Đường, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu, lúc đầu làm Tam vệ lang cho Đường Huyền Tông (712-755), về sau chịu khó đọc sách, đến đời Đức Tông (780-804) làm quan thứ sử Tô Châu có nhiều thiện chính. Ông tính cao khiết, thích đốt hương ngồi một mình. Ông cùng Lưu Trường Khanh 劉長卿 (709-780) được gọi là hai thi nhân đại tự nhiên. Thi tập của ông gồm 10 quyển.
(2) : (2a) Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức úy tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân. Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan). (2b) Lư Chiếu Lân 盧照鄰 (663-689) tên chữ Thăng Chi 昇之, hiệu U Ưu tử 幽懮子, người Phạm Dương, U Châu (nay thuộc huyện Trác, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc). Ông là một trong Sơ Đường tứ kiệt.
(3) châm giới 針芥: từ thạch dẫn châm, hổ phách thập giới 磁石引針, 琥珀拾芥. Nghĩa là: đá từ thạch hút kim, chất hổ phách hút hột cải.
(4) Tam Đường 三唐: Các nhà văn học sử chia nhà Đường làm ba thời kì: Sơ Đường 初唐, Thịnh Đường 盛唐 và Vãn Đường 晚唐.

Dịch thơ:
Đề sau tập thơ của hai họ Vi và Lư


Mắt dù không thấy nhà thơ,
Thấy thơ trước mắt cũng như thấy người.
Núi cao chứa báu muôn đời,
Ngoài vòng gió bụi hạc trời bay cao.
Cải kim tương cảm tương tùy,
Xa xôi Hồ Việt dễ gì mà thân.
Lắng nghe tiếng ngọc gieo vần,
Tam Đường tịch mịch đã gần nghìn thu.


(Quách Tấn dịch)


tham khảo


châm giới 針芥: http://www.zchengyu.com/cyjs/46764.html 

No comments:

Post a Comment