Phiên âm:
Hán Dương vãn diểu 漢陽晚眺 (1)
Bá vương trần tích thuộc du du, (2)
Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.
Quy Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu. (3)
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ, (4)
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu. (5)
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ, (6)
Bạch tần hồng liễu mãn đinh châu.
Dịch nghĩa:
Ngắm cảnh chiều đất Hán Dương
Dấu bá vương đã thuộc về dĩ vãng xa xôi,
Dòng sông Hán vẫn cuồn cuộn chảy suốt đêm ngày.
Hai bên bờ núi Quy núi Hạc đứng đối nhau,
Thần tiên một khi đã ra đi chỉ còn tòa lầu trống.
Bài thơ làm xong cây cỏ đều được nghìn thu,
Ngày chiều nhớ quê hương ai nấy đều chung một mối sầu.
Tưởng tượng năm xưa, ban đêm có tiếng địch thổi,
(Nhưng bây giờ chỉ thấy) rau tần trắng rau lục đỏ đầy doi bãi mà thôi.
Chú thích:
(1) Hán Dương: một huyện thuộc tỉnh Hồ bắc, cách Võ Xương một con sông. Võ Xương là nơi có lầu Hoàng Hạc. Trong bài thơ "Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hạo có câu:
晴川歷歷漢陽樹,芳草萋萋鸚鵡洲
"Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu"
Tản Đà dịch: Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non.
(2) Bá Vương: Hán Dương cũng là nơi tranh bá đồ vương ngày trước.
(3) không lâu: chỉ lầu Hoàng Hạc ở bên kia sông.
(4) thảo thụ giai thiên cổ: cây cỏ nhờ có thơ của Thôi Hạo mà bất hủ. Cây đây là cây ở Hán Dương, cỏ đây là cỏ ở Anh Vũ trong bài Hoàng Hạc lâu của họ Thôi. Mà cây đây cỏ đây cũng là cây ở trước mắt trong thơ của tác giả Nguyễn Du. Trong bài "Hoàng Hạc lâu" của Nguyễn Du có câu: "Nhãn trung thảo thụ thượng y y"
Ý nói "cây cỏ trước mắt vẫn còn y như cây cỏ nghìn xưa tả trong thơ Thôi Hạo. Nhờ thơ Thôi Hạo mà Nguyễn Du còn thấy được cây cỏ nghìn xưa trên cây cỏ ngày nay. Và cây cỏ ngày nay sẽ nhờ thơ Nguyễn Du mà còn trong mắt người hậu thế.
Cho nên mới nói "Thi thành thảo thụ giai thiên cổ".
(5) nhật mộ hương quan: trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu:
Nguyễn Du mượn chữ trong câu đó. Ý nói đối với quê hương người xưa cũng như người nay, người Hoa cũng như người Việt, đều tha thiết như nhau, đều "cộng nhất sầu"".
(6) xuy địch dạ: đêm thổi địch. Chưa rõ xuất xứ. Có người bảo rằng lấy điển trong bài thơ Lý Bạch:
(2) Bá Vương: Hán Dương cũng là nơi tranh bá đồ vương ngày trước.
(3) không lâu: chỉ lầu Hoàng Hạc ở bên kia sông.
(4) thảo thụ giai thiên cổ: cây cỏ nhờ có thơ của Thôi Hạo mà bất hủ. Cây đây là cây ở Hán Dương, cỏ đây là cỏ ở Anh Vũ trong bài Hoàng Hạc lâu của họ Thôi. Mà cây đây cỏ đây cũng là cây ở trước mắt trong thơ của tác giả Nguyễn Du. Trong bài "Hoàng Hạc lâu" của Nguyễn Du có câu: "Nhãn trung thảo thụ thượng y y"
Ý nói "cây cỏ trước mắt vẫn còn y như cây cỏ nghìn xưa tả trong thơ Thôi Hạo. Nhờ thơ Thôi Hạo mà Nguyễn Du còn thấy được cây cỏ nghìn xưa trên cây cỏ ngày nay. Và cây cỏ ngày nay sẽ nhờ thơ Nguyễn Du mà còn trong mắt người hậu thế.
Cho nên mới nói "Thi thành thảo thụ giai thiên cổ".
(5) nhật mộ hương quan: trong thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hạo có câu:
日暮鄉關何處是,煙波江上使人愁
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu"
Tản Đà dịch: Quê nhà khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng thêm buồn lòng đây.Nguyễn Du mượn chữ trong câu đó. Ý nói đối với quê hương người xưa cũng như người nay, người Hoa cũng như người Việt, đều tha thiết như nhau, đều "cộng nhất sầu"".
(6) xuy địch dạ: đêm thổi địch. Chưa rõ xuất xứ. Có người bảo rằng lấy điển trong bài thơ Lý Bạch:
Dữ Sử Lang Trung khâm thính Hoàng Hạc lâu thượng xuy địch
Nhất vi thiên khách khứ Trường Sa,
Tây vọng Trường An bất kiến gia。
Hoàng hạc lâu trung xuy ngọc địch,
Giang thành ngũ nguyệt “Lạc mai hoa”。
Bùi Khánh Đản dịch:
Từ khi thiên khách đến Trường Sa,
Vọng nẻo Trường An chẳng thấy nhà.
Lầu Hạc tháng năm nghe sáo ngọc,
Giang thành vẳng khúc “Lạc mai hoa”
Còn ngờ, vì trong bài của Lý Bạch, cảnh tả là cảnh ban ngày (mặc dù không nói rõ). Còn trong câu thơ của Nguyễn Du, tác giả nhấn mạnh chữ Dạ là ban đêm.
Dịch thơ:
Chiều ngắm Hán Dương
Bá Vương dấu bụi lấp đầy,
Dờn dờn sông Hán đêm ngày chảy xuôi.
Đôi bờ Quy Hạc sánh đôi,
Thần tiên khuất bóng mồ côi bóng lầu.
Thi thành cây cỏ nghìn thu,
Trời chiều chung một mối sầu hương quan.
Tưởng nghe tiếng địch đêm tàn,
Trực nhìn tần trắng liễu vàng đầy doi.
(Quách Tấn dịch)